Pages

Subscribe:

Ảnh hưởng của giáo dục- đào tạo đến việc cải thiện chất lượng lao động.

     Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời.

    Giáo dục phổ thông (giáo dục cơ bản) nhằm cung cấp những kiến thức cơ bán đế phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học (đào tạo) vừa giúp người học có kiến thức đồng thời còn giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào tạo nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì? Yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào?.

    Vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động được phân tích qua các nội dung sau.

    Thứ nhất, giáo dục là cách thức để tăng tích lũy vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn.

giáo dục- đào tạo


    Thứ hai, giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc với năng suất cao là cơ sở thúc đấy tăng trướng nhanh và bền vững.

    Vai trò của giáo dục thường được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ tiêu “tỷ suất lợi nhuận cho giáo dục”, về lý thuyết, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư giáo dục cũng giống lợi nhuận đầu tư vào bất kỳ dự án nào khác. Đó là tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận từ đầu tư ở một mức độ giáo dục nhất định với tổng các chi phí. So sánh chỉ số này giữa các cấp giáo dục có thể giúp cho việc đánh giá lợi ích kinh tể của đầu tư giáo dục ở cấp học nào có hiệu quả hơn.

    Kết quả nghiên cứu của các nước cho thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào cấp tiểu học là cao hơn các cấp học khác. Chẳng hạn, tỷ suất lợi nhuận chung của thế giới (đầu thập niên 90) ở cấp tiểu học là 18,4% trung học là 13,1%, Đại học là 10,9%. Các số liệu tương ứng của Việt Nam là 10,8%, 3,8% và 3,0%. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục tiểu học và giáo dục cơ bản là có hiệu quả hơn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Do vậy chính sách giáo dục của các nước đang phát triển cũng tập trung nhiều và ưu tiên nhiều hơn cho giáo dục tiếu học.




Đọc thêm tại:

Khái niệm về nguồn lao động và lực lượng lao động

      Lao động là hoạt động có mục đích của con người, trong quá trình lao động, con người vận dụng sức lực của bản thân, sử dụng công cụ lao động để tác động vào các yếu tố tự nhiên, biến đổi chúng và làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của con người.

       Trong phát triển kinh tế, quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động để đưa các tư liệu lao động vào sản xuất để tạo ra sản phẩm, của cải vật chất cho xã hội. Nguồn lao động và lực lượng lao động lànhững khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc xác định và tính toán cân đổi lao động – việc làm trong xã hội.

      Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.

lực lượng lao động


      Việc quy định cụ thể về độ tuổi lao động là khác nhau giữa các quốc gia, thậm chí khác nhau qua các thời kỳ trong cùng một quốc gia, tùy thuộc trình độ phát triển của nền kinh tế. Đa số các nước quy định cận dưới (tuổi tối thiểu) của độ tuổi lao động là 15 tuổi, còn cận trên (tuổi tối đa) có sự khác nhau (60 tuổi, hoặc 65 tuổi…). Ở nước ta, theo quy định của Luật Lao động (1994), độ tuổi lao động đối với nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi và nữ là từ 15 tuổi đến 55 tuổi.

        Nguồn lao động luôn được xem xét trên 2 mặt biểu hiện là số lượng và chất lượng.

        Xét về mặt số lượng, nguồn lao động bao gồm:

-      Bộ phân dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.

-     Và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định).

       Chất lượng của nguồn lao động về cơ bản được đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề (trí lực) và sức khoẻ (thể lực) của người lao động.

       Lực lượng lao động theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm.

       Ở nước ta hiện nay, lực lượng lao động được xác định là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp. Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế và nó phản ánh khả năng thực tế về cung ứng lao động của xã hội.



Vấn đề dân số và di dân


  1. Di dân, cho dù là di dân từ nông thôn ra thành thị hay di dân quốc tế, về cơ bản cũng là hiện tượng kinh tể trong đó người lao động muốn tìm kiếm một cơ hội việc làm tốt hơn và một cuộc sống tốt đẹp và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, để lý giải vì sao người dân vẫn tiếp tục di cư, Todaro đã đưa ra khái niệm thu nhập kỳ vọng. Theo đó, quyết định di cư của người dân không chỉ phụ thuộc vào thu nhập thực tế mà còn phụ thuộc vào thu nhập kỳ vọng, là sự kết hợp của hai yếu tố tiền lương bình quân thực tế và xác suất có được việc làm tại nơi họ đến. Vì vậy, đế giảm bớt những áp lực, chính phủ nên chú trọng vào phát triển nông nghiệp và khu vực nông thôn. Xem việc thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị chính là giải pháp bền vững, lâu dài và hiệu quả nhất đối với hiện tượng này.

  2. Việt Nam trở thành nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Tuy nhiên chất lượng dân số còn rất thấp so với rất nhiều nước. Dân số đông và chất lượng thấp đã đặt gánh nặng cho nhà nước trong việc bảo đám công ăn việc làm cũng như thảo mãn nhu cầu tối thiếu cho người dân, và đó cùng là nguyên nhân của nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực. Vì thế vấn đề đặt ra hiện nay trong chính sách dân số ở Việt Nam là: Nâng cao chất lượng dân số, cái thiện tình trạng sức khoẻ sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vẩn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đấy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.



      Dân số: Một tập hợp hoặc những tập hợp người (cả về mặt lượng và mặt chất) mang trên mình những đặc điểm chung nhất định nào đó, trong đó phổ biến nhất có lẽ vẫn là đặc điểm về không gian sinh sống, ví dụ như dân số thế giới, dân số theo khu vực hoặc dân số theo quốc gia.

       Di dân: Quá trình di chuyển về mặt vị trí địa lý, trong nội bộ một nước hoặc giữa các quốc gia, của dân cư và/hoặc các nhóm dân cư. Cho đến nay, nhũng nghiên cứu về vấn đề di dân chủ yếu tập trung vào quá trình di chuyến của dân cư từ nông thôn ra thành thị bời nó gắn liền với nhiêu hiện tượng kinh tế, xã hội quan trọng đang diễn ra tại các quốc gia đang phát triển như quá trình đô thị hóa hay thất nghiệp thành thị.

Vấn đề dân số


       Thể hiện tính quy luật của hiện tương gia tăng dân số nói chung trong môi tương quan giữa tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết. Tôc độ tăng trưởng dân sô ban đầu thấp do tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết đều cao. Sau đó, trong quá trình phát triển, tỷ lệ chết giảm xuống nhanh chóng trong khi tỷ lệ sình vẫn rất cao khiến tốc độ gia tăng dân số rất cao. Tiếp theo, tỷ lệ sinh bắt đầu giảm xuống nhanh chóng do thay đổi trong quan niệm của con người trong vẩn đề sinh sàn thay đổi trong khi tỷ lệ tử giảm xuống rất ít do đó tốc độ tăng trưởng dân số chậm lại. Và cuối cùng, tỷ lệ sinh và tỷlệ tử đều ở mức rất thấp và tốc độ tăng dân số do đó cũng ở mức thấp tương úng.

       Sự tăng hay giảm của dân số theo thời gian và thông thường được lượng hóa băng sự gia tăng tuyệt đôi (sô người tăng lên) và sự gia tăng tương đổi (tốc độ tăng trưởng dân số)



Tình hình chung về dân số hiện nay

        Dân số có những tác động rất quan trọng đến quá trình phát triền. Dân số tăng lên nghĩa là phần sản lượng đầu ra mà mỗi người trong xã hội được chia giảm xuống. Nói cách khác, tăng trướng dân số sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế. Gần đây, nhiều người bắt đầu quan ngại về sự mất cân bằng giữa tăng trưởng dân số và sự khan hiếm tài nguyên, hay sự xuống cấp của môi trường nói chung. Sự cạn kiệt tài nguyên phụ thuộc vào tác động tổng hợp của các nhân tố tăng trường dân số, tăng trưởng thu nhập và mức độ sử dụng tài nguyên. Quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững phụ thuộc vào việc kiếm soát dân số và tiến bộ công nghệ để có thể tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên.

       Xu hướng tăng trưởng dân số thế giới, nhất là tại các quốc gia đang phát triển, và những tác động toàn cầu của nó đã được nêu ra ở mức độ khái quát. Đối với mỗi quốc gia, tăng trưởng dân số phụ thuộc vào tỷlệ sinh, tỷ lệ tử và tỷ lệ di dân. Trong thời đại ngày nay, hai yếu tố đầu tiên sẽ vận động theo “mô hình chuyển đổi dân số” và có thể tạo ra sự gia tăng dân số chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Và chính sự gia tăng dân số như vậy đãtạo nên một sức ép khùng khiếp đối với các nguồn lực cho phát triển. Trong quá trình vận động đó, vai trò của người phụ nữ là khá quan trọng, việc người phụ nữ đến tuổi sinh đẻ có ý nghĩa lớn quyết định đà tàng dân số tại các quốc gia. Cơ cấu tuổi dân số của một quốc gia về cơ bản là một biên số xác định, vì vậy chính tỷlệ sinh con là biến chính sách được con người tác động nhiều nhất để có thế kiếm soát dân số.

dân số hiện nay


      Khác với một số quan điểm trên, trường phái kinh tế học tân cố điên cho rằng sinh con là một nhu cầu sẵn có của các bậc cha mẹ và sẽ được xác định thông qua việc cân nhắc giữa chi phí và lợi ích tương tự như nhu cầu đối với nhiều hàng hóa khác. Tại nhiều nền kinh tế lạc hậu, trẻ em giống như một hàng hóa đầu tư và một hình thức bảo hiểm xã hội khi cha mẹ về già. Tại các quốc gia tiến bộ, sinh con dường như lại được nhìn nhận như một hàng hóa tiêu dùng nhiều hơn. Trong vấn đề này, chính phủ nên phát huy vai trò của mình khi lợi ích và chi phí của mỗi cá nhân chưa phản ánh đầy đủ chi phí và lợi ích xã hội của việc sinh con. Chính phủ có thể thuyết phục và ủng hộ các gia đình thay đổi hành vi sinh sản vì lợi ích chung của cộng đồng hoặc cũng có thể cung cấp trực tiếp các biện pháp để kiểm soát việc sinh con, tuy nhiên trong nhiều trường họp, cách tiếp cận đầu tiên có vẻ mang lại hiệu quả tích cực và bền vững hơn.


Các chính sách dân số ở Việt Nam

        Việt Nam đã có chương trình mục tiêu quốc gia về Dân số – kế hoạch hóa gia đình với mục tiêu ‘Nâng cao chất lượng dân số’ cũng như dự tháo chiến lược Dân số và sức khoé sinh sản giai đoạn 2011-2020. Chiến lược này bao gồm nâng cao chất lượng dân số; cái thiện sức khoẻ sinh sản; duy trì cơ cấu dân số; quy mô, mật độ dân số và mức sinh… Chiến lược này cũng ưu tiên quan tâm đến người nghèo, vùng sâu vùng xa ở Việt Nam lẫn vấn đề giáo dục cho trẻ em ở miền núi và nông thôn.

       Tóm lại, dân số vừa là phương tiện vừa là động lực của phát triển bền vững. Điều quan trọng nhất khi lồng ghép vấn đề dân số với phát triển là việc đặt chúng vào mối quan tâm tống thể trong chiến lược và chính sách chung. Trong thời gian tới, các chính sách liên quan đến dân số cần xây dựng và triển khai thực hiện bao gồm:

        Thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình và xây dựng quy mô gia đình hợp lý ở đây không chỉ là việc của dân số học, mà nó liên quan đến nhiều phạm vi kinh tể, xã hội, văn hóa. Quan niệm truyền thống về gia đình cũng như mô hình gia đình đang có những biến đối, cần thực hiện chính sách pháp luật tạo điều kiện để xây dựng gia đình 1 -2 con; tạo cơ hội để mọi thành viên trong gia đình đều được tôn trọng, xây dựng nếp sống văn hóa gia đình, đấy mạnh dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, phòng tránh thai, tư vấn sức khoẻ tình dục.

dân số ở Việt Nam


         Chính sách và chương trình cụ thể đối với những nhóm đặc thù như vị thành niên, người già, người tàn tật (trong thập niên tới người già sẽ tăng 8- 25%), người dân tộc thiểu số.

       Chính sách xã hội về di cư. Thực hiện di cư có quy hoạch, kê hoạch nằm trong phương hướng chiến lược tái phân bổ dân cư và lao động giảm sức ép nơi quả đông dân, nhưng không được mang con bó chợ.

        Chính sách về đô thị hóa. Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội là xu hướng chuyển đổi từ xã hội nông thôn là phô biến sang xã hội đô thị là phổ biến tại các nước phát triển và đang phát triên. Đô thị hóa phải tiến hành trên cơ sở dữ liệu cụ thể, có phương án thực hiện một cách thấu đáo, phải được thực hiện một cách đồng bộ, có đầy đủ các yếu tố đảm bảo cho dân cư có cuộc sống ổn định, được hưởng các quyền lợi về chăm sóc y tế, giáo dục, và văn hóa.



Mục tiêu phát triển dân số ở Việt Nam

       Mục tiêu tổng quát phát triển dân số được xác định trong dự thảo chiến lược dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là: Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khoẻ sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.

dân số ở Việt Nam


Chiến lược cũng xác định một số mục tiêu cụ thể phát triển dân số Việt Nam bao gồm:

(1)   Nâng cao sức khoẻ, giảm bệnh, tật, và tứ vong ớ trẻ em. Phấn đấu vào năm 2020 giam tỷ lộ chết sơ sinh xuống còn dưới 7%0, tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi dưới 12%, tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi dưới 18%.

(2)   Nâng cao sức khoẻ bà mẹ, vào năm 2020 giảm 30% tỷ số tử vong mẹ so với năm 2010, thu hẹp đáng kể sự khác biệt về các chỉ báo sức khoẻ bà mẹ giừa các vùng, miền.

(3)   Khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh để tỷ số này vào năm 2020 không vượt quá 115, đặc biệt tập trung vào các địa phương có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trầm trọng, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức bình thường.

(4)   Đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế hoạch hóa gia đình của nhân dân, duy trì mức sinh thấp hợp lý đế số con trung bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (tổng tỷ suất sinh) ở mức 1,8; quy mô dân số không quá 98 triệu người vào năm 2020. Tăng khá năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ sinh sản có chất lượng, vào năm 2020 phấn đấu giám 50% trường hợp vô sinh thứ phát so với năm 2010.



Thực trạng chất lượng dân số và tỷ số giới tính

       Chỉ số con người tiếp tục gia tăng, nhưng vẫn ở mức thấp so với nhiều nước trong khu Vực và thấp xa so với các nước công nghiệp. Giá trị chỉ số HDI tăng từ 0,688 điểm xếp thứ 108/174 nước trên thế giới (năm 2000) lên 0,733 điếm và xếp thứ 105/177 (năm 2008). Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam cũng có bước tiến rõ rệt khi tăng lên đến 73,1 tuổi năm 2008 và dự kiến đạt 75 tuổi vào năm 2020.

     Tình trạng về sức khoẻ bà mẹ, trẻ em được cải thiện đáng kê, nhưng còn ở mức thấp: tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ đạt hơn 95%; tỷ suât chết trẻ em dưới một tuổi giảm từ 31,2 phần nghìn xuống 15 phẩn nghìn trẻ đẻ ra sống (năm 2010). Tỷ lệ suy dinh dường trẻ em dưới năm tuổi giảm từ 33,8% (năm 2000) xuống còn 21,2% (năm 2008), tuy nhiên ở một số vùng còn cao tới 30 – 35% như Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Đáng chú ý, các yếu tố về thể lực con người còn thấp, đặc biệt có tới 6,3% dân số bị tàn tật với các mức độ khác nhau, có 1,5% dân số bị thiểu năng về trí tuệ, không đủ khả năng sinh hoạt và tự nuôi bản thân. Các tố chất về tầm vóc thể lực còn nhiều hạn chế, nhất là chiều cao, cân nặng và sức bền còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực.


tỷ số giới tính


       Bên cạnh đó, tỷ số giới tính khi sinh có xu hướng tăng mạnh trong giai đoạn 2000-2006; nhất là năm 2008 (112 bé trai/100 bé gái) đó là dấu hiệu của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đặc biệt, cả nước có chín tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh ở mức báo động và rất cao từ 115 đến 128 bé trai/100 bé gái.

        Trong khi đó, nước ta phải đối mặt với việc dân cư phân bổ không đồng đều giữa các vùng. Từ năm 1999 đến năm 2006, hai vùng có tỷ trọng dân số thay đổi đáng kể là Đông Bắc (giảm từ 14,2% xuống 11,1%) và Tây Nguyên (tăng từ 4,0% lên 5,8%). Hai vùng đông dân nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (43,3% tổng số dân), trong khi diện tích đất chỉ chiếm 16,6% diện tích cả nước. Ngược lại, Tây Bắc và Tây Nguyên là nơi thưa dân nhất (8,9%), nhưng diện tích chiếm hơn một phần bốn lãnh thổ.



Thực trang qui mô và cơ cấu dân số ở Việt Nam

        1. Thực trạng qui mô dân số và tăng trưởng dân số
       Theo báo cáo Tình hình Dân số Thế giới 2010 của Liên Hiệp Quốc dân số Việt Nam 2010 là 89 triệu người và sẽ tăng lên 111,7 triệu người vào năm 2050. Việt Nam hiện đứng thứ 14 trong số những nước đông dân nhất thế giới.

       Quy mô dân số lớn, vẫn tiếp tục tăng về số lượng tuyệt đối, song tốc độ tăng có xu hướng giảm. Dân số năm 2000 là 77,6 triệu người, năm 2008 là 85,122 triệu người, đạt 86 triệu người vào năm 2009 và đạt mục tiêu Chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010. Trong 10 năm (2001-2010), dân số Việt Nam tăng thêm 11,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 1,12 triệu người. Trong 10 năm tới (từ 2011- 2020), bình quân mỗi năm dân số vẫn tăng khoảng một triệu người và sè đạt cực đại ở mức 110-120 triệu người vào giữa thế kỷ 21.

         Mặc dù dân thành thị hiện chiếm 30% tổng dân số ở Việt Nam nhưng lại đang tăng nhanh với tốc độ trung bình 3,4%/năm. Khu vực miền Đông Nam Bộ là nơi có mức đô thị hóa cao nhất.


tăng trưởng dân số


        Đến nay Việt Nam vẫn là quốc gia “đất chật, người đông”, có quy mô dân số rất lớn, mật độ dân số rất cao (260 người trên 1km2, gần gấp đôi Trung Quốc). Theo Tổng cục Thống kê, mật độ dân số ở Việt Nam hiện nay có sự phân bố rất chênh lệch và mức gia tăng không đồng đều. Một số tỉnh như Nam Định, Thanh Hóa… có tỷ lệ tăng dân số không đáng kể vì số lượng lớn người dân di cư vào các tỉnh thành phía Nam để làm ăn sinh sống. Ước tính trong năm 2004-2010 có tới 9,1 triệu người di cư.

2.   Thực trạng cơ cấu dân số

        Việt Nam đang bước vào thời kỳ dân số vàng, tức là tổng số người trong độ tuổi lao động lớn hơn tổng số người phụ thuộc (già và trẻ em), hiện tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 60% dân số, theo phân tích thì bình quân 2 người lao động nuôi 1 người phụ thuộc.

        Trong suốt thời gian dài, dân số nước ta luôn được gọi là “cơ cấu dân số trẻ”; tuổi trung vị cua dân số có chiều hướng tăng từ 18,3 tuổi (năm 1979) lên 25,5 tuổi vào năm 2005, đánh dấu sự kết thúc giai đoạn “cơ cấu dân số trẻ”. Từ năm 2007, dân số bước vào giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” với tỷ lệ dân số phụ thuộc chiếm dưới 50%; dân số trong độ tuổi lao động (15-59 tuổi) tăng nhanh, mỗi năm có 1,4 – 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động và dự kiến quy mô dân số lao động đạt cực đại vào năm 2020.

       Còn “cơ cấu dân số già” sẽ bắt đầu từ sau năm 2017 do tỷ lệ người già từ 60 tuổi trở lên tăng nhanh, già hóa dân số sẽ là một thách thức lớn mà nước ta sẽ phải đối mặt trong thời gian tới.


Đọc thêm tại : http://giatrikinhtehoc.blogspot.com/2015/07/goi-y-ve-phuong-thuc-kiem-soat-qua.html


Gợi ý về phương thức kiểm soát quá trình di dân

       Liên quan đến chính sách tham gia thị trường lao động quốc tế của các quốc gia đang phát triển, xuất khẩu lao động có thể là một trong những giải pháp tốt góp phần làm dịu áp lực của hiện tượng đô thị hóa va thất nghiệp hiện nay. Bên cạnh đó, việc đưa người lao động ra nước ngoài còn giúp các quốc gia đang phát triển thực hiện từng bước quá trình tiếp cận và chuyên giao công nghệ với thế giới, tiến bộ trong phương thức sản xuất và đôi khi là cả lượng tích lũy ban đầu (thông qua kiều hối). Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp lâu dài khi cấu trúc dân số và lao động thay đổi thuận theo quá trình chuyển đổi dân số nói riêng và quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung.

       Ngoài ra, hiện tượng “chảy máu chất xám” thậm chí mất đi bản sắc dân tộc cũng là những hệ quả không dễ khắc phục trên bình diện quốc gia. Vì vậy, vấn đề với các quốc gia đang phát triển phải lựa chọn được chính sách phù hợp trong từng giai đoạn phát triển, khi nào thì xuất khẩu lao động ra nước ngoài, xuất khẩu những ngành nghề gì, bao nhiêu người và trong khoảng thời gian bao lâu, và khi nào và bằng cách nào thì lại phải thu hút những lao động đó trở về nước làm việc, sinh sống…Đây là những vấn đề khá phức tạp và mỗi quốc gia phải có những cách thức giải quyết khác nhau, phù hợp với đặc điểm riêng của từng quốc gia.

 kiểm soát quá trình di dân


       Kết hợp chặt chẽ các chính sách tác động trực tiếp vào quá trình di dân với các chính sách kiểm soát tăng trưởng dân số tự nhiên để tăng trưởng dân số phát huy được mặt tích cực của nó. Giảm tốc độ tăng trưởng dân số thông qua xóa đói giảm nghèo và giải quyết vấn đề bất bình đẳng song song với các chính sách khác như thực hiện chương trình kế hoạch hóa gia đình và dịch vụ y tế nông thôn. Đây được xem là một trong những giải pháp gián tiếp nhưng lại có ý nghĩa chiến lược để giải quyết triệt để vấn đề việc làm và và quá trình đô thị hóa quá nhanh tại các quốc gia đang phát triển.

       Mặc dù quy mô lực lượng lao động sau đây 2 thập kỷ đã được quyết định bởi tỷ lệ sinh con ngay tại thời điểm này, tuy nhiên tốc độ gia tăng dân số vẫn luôn được xem là có sự tương đồng với tốc độ gia tăng quy mô của lực lượng lao động. Vì vậy cùng với những định hướng chính sách kể trên, những biện pháp liên quan đến dân số như trình bày trong phần trên của chương này vẫn được xem là một trong những giải pháp mang tính chất lâu dài để giải quyết vấn đề việc làm tại các quốc gia đang phát triển, hiện tại và tương lai.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: xoa doi giam ngheo, bất bình đẳng xã hội

Cách thức giảm thiểu quá trình di dân

       Giảm thiểu hiện tượng bóp méo đối với giá cả các nhân tố sản xuất. Loại bỏ các hình thức trợ cấp, bao cấp vốn và ngăn chặn hiện tượng tăng tiền lương quá nhanh tại khu vực thành thị sẽ giúp mở rộng cơ hội việc làm cũng như nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm. Nhưng mức độ và khoảng thời gian mà những chính sách kiểu này phát huy tác dụng trong thực tế lại là một vấn đề không rõ ràng. Ngoài ra, các chính phủ cũng cần phải chắc chắn về mối quan hệ giữa các chính sách này với vấn đề di dân vì điều chỉnh giá cả, bản thân nó, thi chưa đủ để làm thay đổi tình trạng việc làm hiện tại.

      Lựa chọn những công nghệ sử dụng nhiều lao động một cách phù hợp. Một trong những trở ngại chủ yếu để thực hiện thành công các chương trình tạo việc làm trong dài hạn, cả ở khu vực công nghiệp thành thị và nông nghiệp nông thôn, ở các nước nghèo, các nước đang phát triển đó là sự phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào các quốc gia phát triển về công nghệ và máy móc nhập khẩu (đa phần là tiết kiệm lao động).

Con người


       Để giảm bớt sự phụ thuộc này, đòi hỏi nỗ lực của các các quốc gia đang phát triển cũng như sự trợ giúp từ phía các quốc gia phát triển, đặc biệt là trong công tác phát triển các nghiên cứu về công nghệ và khá năng tiếp thu và thích ứng công nghệ của quốc gia đang phát triển. Sự trợ giúp từ phía các quốc gia giàu, quốc gia phát trien thông qua hình thức hồ trợ kỹ thuật và nghiên cứu khoa học tỏ ra đặc biệt có ích trong lĩnh vực này, khi họ nghiền cứu những phương pháp sản xuất chi phí thấp, giá thành hạ, sứ dụng nhiều lao động và phù hợp với điều kiện tại các nước nghèo về cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, hệ thông tưới tiêu … và cả các dịch vụ cơ bản về giáo dục và sức khoẻ khác.

        Điều chỉnh mối liên hệ trực tiếp giữa giáo dục và việc làm. Hiện tượng thất nghiệp đối với người có trình độ học vấn cao đã đặt ra nhiều dấu hỏi về hệ thống giáo dục tại các quốc gia đang phát triển. Mặc dù những vấn đề liên quan đến giáo dục sẽ được bàn luận chi tiết trong chương 8 nhưng hiện tượng “thừa thầy, thiểu thợ” hoặc ngược lại đang ngày một trở nên phổ biến tại các quốc gia đang phát triển. Nếu hình dung hệ thống đào tạo như những kênh dẫn nước cung cấp nước tưới trên thị trường lao động thì dường như mục tiêu điều chình hiện nay là làm cho hệ thống kênh dẫn này phân bổ đều hơn trên khắp cánh đồng, nghĩa là kênh dẫn phải dài ra và đầu ra phải nhỏ lại, tránh hiện tượng một kênh lớn duy nhất đổ nước ào ạt tại một điểm trên cánh đồng.

        Để thực hiện được việc này, các chính phủ nên đa dạng hóa các tiêu chí tuyển dụng và xác lập hệ thống-lương bổng, chứ không nên chỉ dựa vào học hàm, học vị. Ngoài ra, việc phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn, tạo ra những cơ hội kinh tế hấp dẫn trong khu vực này cũng sẽ khiến hệ thống giáo dục có những chuyển biến tích cực trong ngành nghề đào tạo. Hiện nay, nhiều quốc gia đang phát triển đã vận dụng mô hình giáo dục của các nước phương tây, định hướng sinh viên hoạt động trong các ngành nghề hiện đại, có quy mô nhỏ chiếm tới khoảng 20% đến 30% tổng lực lượng lao động. Rất nhiều kiến thức và kỹ năng phục vụ quá trình phát triển hiện nay vẫn chưa được coi trọng đúng mức.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: xoa doi giam ngheo, bất bình đẳng giới là gì

Chính sách kiểm soát quá trình di dân

     Trước hết, cần khẳng định rằng di dân là một hiện tượng tất yếu, mang bản chất của một quá trình phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường, việc sử dụng những biện pháp có tính chất hành chính, cưỡng chế như hình thành các “rào cản di dân” là những biện pháp bất đắc dĩ, không phù hợp với cơ chế thị trường và những quy luật vận động chung của nền kinh tế.

     Vì vậy, những chính sách tác động vào quá trình di dân, giảm bớt sức ép từ quá trình di dân và đô thị hóa, sẽ hướng tới việc hạn chế những nhân tố có thể gây nên những dòng di dân ồ ạt đồng thời tạo ra những mối liên kết kinh tế ổn định và bền vũng mà không nhất thiết phải có sự di chuyển về mặt địa lý của đại bộ phận dân cư (mối liên kết giữa vùng phát triển và vùng chậm phát triển).


Chính sách kiểm soát


     Trong những thảo luận trên về hiện tượng dân cư di chuyển từ nơi này sang nơi khác, chúng ta có thể nhận thấy tầm ảnh hưởng quan trọng của di dân đối với vấn đề dân số và việc làm, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triến. Để hình thành một chính sách tổng thể cho hiện tương di dân và việc làm, các nhà kinh tế học đồng ý với một số quan điểm tiếp cận chủ yếu sau:

     Thứ nhất, tạo lập sự bình đẳng nhất định về cơ hội kinh tể giữa nông thôn và thành thị. Thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn được xem là một trong những kiều kiện kiên quyết đế giảm tốc quá trình di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, qua đó tăng cường khả năng giải quyết hiện tượng thất nghiệp ở cà hai khu vực. Để thực hiện được việc đó, giải pháp định hướng trọng tâm chính là phát triển nông thôn, phát triển sản xuất nông nghiệp (sử dụng các ngành nghề có quy mô nhỏ) và tái định hướng các hoạt động kinh tế và đầu tư xã hội hướng nhiều hơn vào khu vực nông nghiệp và nông thôn.

    Thứ hai, mở rộng các ngành sử dụng nhiều lao động, các ngành có quy mô sản xuất nhỏ. Việc tăng cường sản xuất các ngành hàng đòi hỏi nhiều lao động, tỷ lệ lao động trên một đơn vị đầu ra và tỷ lệ lao động trên vốn lớn sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm mới. Vềcơ bản, nhiệm vụ này có thể được thực hiện theo hai cách: (i) trực tiếp, thông qua các khoản đầu tư và chính sách ưu đãi, khuyến khích của chính phủ, nhất là đối với các hoạt động trên thị trường lao động phi chính thức ở thành thị và (ii) gián tiếp, thông qua việc tái phân phối thu nhập (hiện tại và tương lai) dành cho người nghèo bởi cơ cấu tiêu dùng của họ có nhiều hàng hóa phi nhập khẩu và sử dụng nhiều lao động hơn so với cơ cấu tiêu dùng của những người khá giả.





Đọc thêm tại: