Dân số có những tác động rất quan trọng đến quá trình phát triền. Dân số tăng lên nghĩa là phần sản lượng đầu ra mà mỗi người trong xã hội được chia giảm xuống. Nói cách khác, tăng trướng dân số sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế. Gần đây, nhiều người bắt đầu quan ngại về sự mất cân bằng giữa tăng trưởng dân số và sự khan hiếm tài nguyên, hay sự xuống cấp của môi trường nói chung. Sự cạn kiệt tài nguyên phụ thuộc vào tác động tổng hợp của các nhân tố tăng trường dân số, tăng trưởng thu nhập và mức độ sử dụng tài nguyên. Quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững phụ thuộc vào việc kiếm soát dân số và tiến bộ công nghệ để có thể tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên.
Xu hướng tăng trưởng dân số thế giới, nhất là tại các quốc gia đang phát triển, và những tác động toàn cầu của nó đã được nêu ra ở mức độ khái quát. Đối với mỗi quốc gia, tăng trưởng dân số phụ thuộc vào tỷlệ sinh, tỷ lệ tử và tỷ lệ di dân. Trong thời đại ngày nay, hai yếu tố đầu tiên sẽ vận động theo “mô hình chuyển đổi dân số” và có thể tạo ra sự gia tăng dân số chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Và chính sự gia tăng dân số như vậy đãtạo nên một sức ép khùng khiếp đối với các nguồn lực cho phát triển. Trong quá trình vận động đó, vai trò của người phụ nữ là khá quan trọng, việc người phụ nữ đến tuổi sinh đẻ có ý nghĩa lớn quyết định đà tàng dân số tại các quốc gia. Cơ cấu tuổi dân số của một quốc gia về cơ bản là một biên số xác định, vì vậy chính tỷlệ sinh con là biến chính sách được con người tác động nhiều nhất để có thế kiếm soát dân số.
Khác với một số quan điểm trên, trường phái kinh tế học tân cố điên cho rằng sinh con là một nhu cầu sẵn có của các bậc cha mẹ và sẽ được xác định thông qua việc cân nhắc giữa chi phí và lợi ích tương tự như nhu cầu đối với nhiều hàng hóa khác. Tại nhiều nền kinh tế lạc hậu, trẻ em giống như một hàng hóa đầu tư và một hình thức bảo hiểm xã hội khi cha mẹ về già. Tại các quốc gia tiến bộ, sinh con dường như lại được nhìn nhận như một hàng hóa tiêu dùng nhiều hơn. Trong vấn đề này, chính phủ nên phát huy vai trò của mình khi lợi ích và chi phí của mỗi cá nhân chưa phản ánh đầy đủ chi phí và lợi ích xã hội của việc sinh con. Chính phủ có thể thuyết phục và ủng hộ các gia đình thay đổi hành vi sinh sản vì lợi ích chung của cộng đồng hoặc cũng có thể cung cấp trực tiếp các biện pháp để kiểm soát việc sinh con, tuy nhiên trong nhiều trường họp, cách tiếp cận đầu tiên có vẻ mang lại hiệu quả tích cực và bền vững hơn.